Trong dịp Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã mừng kỷ niệm Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Chúa Giêsu giáng trần là để cùng sống, cùng chia sẽ thân phận con người như toàn thể nhân loại và rao giảng Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa, rồi chịu nạn và chịu chết để cứu chuộc nhân loại; sau đó “phục-sinh” và lên trời, để mở đường cứu rỗi cho mọi người tin theo Ngài.

        Để chuẩn bị Đại Lễ Giáng Sinh, có 4 tuần lễ gọi là “Mùa Vọng”; còn để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh, có 40 ngày “Mùa Chay”. Mùa Chay Thánh kéo dài 40 ngày vì Chúa Giêsu đã “ăn chay” 40 ngày đêm trong sa mạc để chuẩn bị công cuộc rao giảng của Ngài (thường được gọi là “cuộc đời công khai”), sau khi Ngài đã sống “âm thầm” khoảng 30 năm và sinh sống bằng nghề “thợ mộc” tại làng Nagiaret, miền Galilê (phía bắc nước Do Thái).

        Cuối Mùa Chay là “Tuần Thánh” (Holy Week). Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất trong Phụng vụ của Giáo Hội. Tuần Thánh để người Kitô hữu tưởng niệm những biến cố đặc biệt trong những ngày cuối cùng của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.

        Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh và kỷ niệm việc Chúa Giêsu được những người dân tốt lành cùng các trẻ em đón rước long trọng tiến vào Thành Thánh Giêrusalem. Chúa Nhật Lễ Lá cũng còn gọi là Chúa Nhật Chịu Nạn. Trước Thánh Lễ có làm phép lá và long trọng rước lá vào Thánh Đường để cử hành Thánh Lễ. Trong Thánh Lễ, chủ tế sẽ đọc bài Thương Khó của Chúa Giêsu, thay vì bài Phúc Âm. Lá đã được làm phép, giáo dân có thể mang về nhà và để trên bàn thờ, để nhắc nhở mọi người trong gia đình về những ngày Thánh trong Tuần Thương Khó.

        Ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy trong Tuần Thánh, được gọi là Tam Nhật Thánh (Easter Triduum). Đó là những ngày Thánh để kỷ niệm những biến cố trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại: Ngày Thứ Năm kỷ niệm bửa Tiệc Ly, ngày Thứ Sáu kỷ niệm Chúa Giêsu chịu khổ nạn, ngày Thứ Bảy kỷ niệm Chúa Giêsu chịu táng trong mộ đá. Sau đó là Chủ Nhật Phục Sinh.

        Thứ Năm Tuần Thánh (Holy Thursday) để kỷ niệm việc Chúa Giêsu ăn bửa tối cuối cùng (The Last Supper) với 12 môn đệ trước khi Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để ra đi nộp mình chịu khổ hình. Bửa ăn nầy cũng được gọi là bửa ăn “Tình Thương” (“Agapé” tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “Tình Thương”), vì trong bữa ăn nầy, Chúa Giêsu đã lập hai Bí Tích (Sacrament) đặc biệt nói lên tình thương của Chúa đối với nhân loại: “Bí Tích Thánh Thể” để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của các tín hữu bằng chính Mình và Máu Thánh Người. “Bí Tích Truyền Chức Thánh” để thiết lập chức “Linh Mục Thừa Tác”; qua Bí Tích này, Thiên Chúa tuyển chọn một số người để làm Linh Mục thừa tác, tiếp tục cử hành Bí Tích Thánh Thể và duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa qua mọi thời gian và ở mọi nơi. Sở dĩ gọi là Linh Mục “thừa tác” vì chỉ có Chúa Giêsu là “Linh Mục Thượng Tế” trọn hảo, còn các linh mục thì được tham dự đặc biệt vào chức Linh Mục của Chúa (xin xem Thơ Thánh Phalô gửi người Do Thái, chương 7, 8 và 9). Các tín hữu cũng được tham dự cách thiêng liêng vào chức Linh Mục của Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy họ đã lãnh nhận khi gia nhập Dân Thánh Chúa. (Xin xem thơ Thứ Nhất của Thánh Phêrô, đoạn 2, câu 9). Vì thế khi ngưòi công giáo đi lễ, không phải là chỉ “xem lễ” hay “dự lễ”, nhưng là “cùng nhau” và hợp với vị Chủ tế dâng hiến lễ vật lên Thiên Chúa và tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại. Lễ vật dâng tiến chính là của lễ trọn hảo, là “Mình và Máu Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Bánh Miến và Rượu Nho tinh tuyền”. Cùng với lễ vật trọn hảo đó, các tín hữu dâng lên Chúa chính con người của mình (linh hồn và thân xác), và những hy sinh lao nhọc của mỗi người trong cuộc sống hàng ngày.

        Cũng trong “bữa ăn tình thương” tối Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu cúi mình xuống rửa chân cho các tông đồ, để dạy cho các Ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn. Điều này làm cho tông đồ Phêrô sửng sốt và phản đối: “Sao Thầy mà lại phải cúi xuống rửa chân cho chúng con...”. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Việc Thầy làm cứ để Thầy làm”. Sau khi rửa chân cho 12 ông xong, Chúa Giêsu mới nói: “Thầy đã cúi xuống rửa chân cho chúng con là để dạy chúng con bài học yêu thương phục vụ: Như Thầy đã rửa chân cho chúng con, chúng con cũng hãy rửa chân cho nhau…” (xin xem Phúc Âm theo Thánh Gioan, đoạn 13, câu 12...).

        Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, vào buổi sáng, tại Nhà Thờ Chánh Tòa của mỗi giáo phận (Diocese), Đức Giám Mục và các Linh Mục trong toàn giáo phận họp mặt để cùng dâng Thánh Lễ thường gọi là “Thánh Lễ Làm Phép Dầu Thánh”. Trong Thánh Lễ long trọng nầy (thường có rất đông giáo dân tham dự và kéo dài chừng 2 giờ), Đức Giám Mục sẽ làm phép ba thứ Dầu Thánh (thường là dầu “olive”) để dùng trong các lễ Truyền Chức Thánh, trong khi ban Bí Tích Thêm Sức, Bí Tích Rửa Tội, và Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Cũng trong Thánh lễ long trọng nầy, Đức Giám Mục và các Linh Mục cùng nhau long trọng nhắc lại lời tuyên hứa khi chịu chức Thánh; tuyên hứa trước Cộng Đồng Dân Chúa đang có mặt trong Thánh lễ. Sự hiện diện của các Linh Mục trong Giáo phận trong Thánh lễ này là để nói lên sự hiệp nhất của toàn thể linh mục đoàn chung quanh vị Chủ Chăn của Giáo phận là Đức Giám Mục (hoặc Tổng Giám Mục). Vì thế, ở các giáo phận (hay tổng giáo phận) rộng lớn quá mà các linh mục sau Thánh Lễ Làm Phép Dầu Thánh tại Nhà Thờ Chánh Tòa không thể về kịp để dâng lễ buổi chiều tại các giáo xứ, thì Thánh Lễ làm phép Dầu Thánh có thể chuyển vào Thứ Năm tuần trước đó, và thường cử hành vào buổi chiều để giáo dân có thể tham dự thánh lễ đông đảo hơn.

        Vào buổi chiều Thứ Năm Tuần Thánh, thường chỉ cử hành một Thánh Lễ tại Nhà thờ chính của Giáo xứ, để Cha Chánh Xứ (Pastor) và các Cha Phụ Tá cùng đồng tế với sự hiện diện của giáo dân toàn giáo xứ và cử hành một Thánh lễ đặc biệt để kỷ niệm Bữa Tiệc Ly như đã nói ở trên. Thánh lễ nầy thường cử hành vào buổi chiều tối (Bữa Tiệc Ly cũng vào buổi tối) để giáo dân có thể đến đông đủ hơn. Trong Thánh lễ, sau bài Phúc Âm và Bài Giảng, vị Chủ tế cũng cử hành nghi thức “rửa chân” cho một số vị đại diện của cộng đồng Dân Chúa trong giáo xứ. Trong lúc cử hành nghi thức “rửa chân”, Ca đoàn thường hát các bài thánh ca về tình yêu thương, đặc biệt bài “Đâu Có Tình Yêu Thương” (dịch từ bản thánh ca La tinh “Ubi Caritas est, Deus est”, “Where there is love, there is God”). Bản Thánh Ca này đã được dịch ra và phổ nhạc rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Mấy câu đầu trong bản Thánh Ca này bằng tiếng Việt Nam như sau:

“Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời!
Đâu có lòng từ bi, là ở đấy có ân sủng người!
Đâu có tình bác ái, là Chúa chúc lành không ngơi!
Đâu ý hợp tâm đầu, ở đấy chứa chan nguồn vui!”

        Sau Thánh Lễ, có lễ nghi long trọng rước Mình Thánh Chúa vào một nơi trang trọng để toàn thể Dân Chúa (theo từng họ đạo hoặc đoàn thể) đến tôn kính và cầu nguyện cho đến nửa đêm.

        Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (đặc biệt trong tiếng Anh, không gọi là “Holy Friday”, nhưng gọi là “Good Friday”) là ngày rất tốt lành cho toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu đã chịu nạn và chịu chết trong ngày này để đền tội cho nhân loại và mở đường cứu rỗi cho mọi người; vì thế có lệ kiêng thịt ngày thứ sáu, nhất là trong Mùa Chay Thánh. Giờ Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá là vào khoảng 3 giờ chiều (theo giờ của người Do Thái hồi đó là “giờ thứ chín”) (xin xem Phúc Âm theo Thánh Luca, đoạn 23, từ câu 44...). Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh không có Thánh lễ, nhưng có cuộc Suy Ngắm “Đàng Thánh Giá” long trọng và tiếp theo là cuộc cử hành “Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó” của Chúa Giêsu, thường vào khoảng 3 giờ chiều; tuy nhiên có thể cử hành muộn hơn để giáo dân có thể đến tham dự đông đủ, nhưng phải trước 9 giờ tối. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh có luật buộc ăn chay và kiêng thịt để tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu đã chịu chết trên cây Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại; vì thế Thánh Giá luôn hiện diện nơi các Thánh đường, các nơi thờ phượng, trên bàn thờ trong các gia đình giáo dân và đặc biệt trên các phần mộ của các Kitô hữu đã qua đời.

        Trong Đế quốc Rôma thời xưa, hình phạt chịu treo trên “thập tự giá” thường chỉ dành cho những người nô lệ. Các người bị xử án phải vác hai cây gỗ đến một ngọn núi ngoài thành phố, rồi bị đóng đanh vào hai cây gỗ đã được đóng chặt thành hình “chữ thập” (như chúng ta vẫn nhìn thấy nơi “thánh giá” của Chúa). Người ta dùng đinh đóng hai cổ tay vào hai đầu xà ngang. Còn hai chân bị đóng vào phía cuối “thập tự giá” và thường dưới hai bàn chân của “tội nhân” còn có một cái bệ nhỏ giữ hai bàn chân; mục đích là để khi đã dựng cây gỗ lên rồi, xác “tội nhân” không bị kéo trì xuống, “tội nhân” vẫn còn có thể thở được, và như vậy vẫn “phải” kéo dài sự sống trong đau đớn cho đến khi kiệt sức và chết đi. Trường hợp Chúa Giêsu thì Ngài chết nhanh hơn, vì đã bị bắt từ tối Thứ Năm, rồi bị hành hạ, đánh đập suốt đêm. Qua ngày Thứ Sáu, sau khi được lệnh của Philatô, họ mới bắt vác thánh giá ra ngoài thành Giêrusalem, đến đồi Gôn-gô-ta rồi mới đóng đinh. Lúc đó Chúa Giêsu đã hầu như đã hoàn toàn kiệt sức. Đồi Gôn-gô-ta hình như một “chiếc sọ” được gọi là “Gôn-gô-ta” “Núi Sọ” (Gôn-gô-ta theo tiếng người Do Thái thời đó có nghĩa “Núi Sọ”). Đồi nầy nằm ở phía tây bắc Thành Giêrusalem và không xa bức tường thành bao nhiêu. (Khi đi viếng Đất Thánh, quê hương của Chúa, du khách sẽ được dẫn đến đó để kính viếng).

        Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết vào chiều Thứ Sáu, áp ngày Thứ Bảy là ngày nghỉ lễ của người Do Thái; hơn nữa lại trùng vào Đại Lễ ‘Vượt Qua’ (Passover) (PÂ Gioan 19:31...), nên theo tục lệ thời đó, các “tội nhân”, sau khi đã bị xử án treo trên thập tự giá, không được để qua đêm, đến chiều tối phải hạ xuống. Nhưng trước khi hạ xuống, phải dùng búa đánh giập ống chân của “tội nhân” để chắc chắn là đã chết thật. Nếu thật sự “tội nhân” chưa chết, thì sau khi hai ống chân đã gẫy, thân xác kéo thẳng xuống, “tội nhân” không còn thở được nữa, nên phải chết trong giây lát (như đã nói ở trên). Khi các người lính đến quan sát Chúa Giêsu, họ thấy Ngài đã chết thực sự, nên không đánh giập ống chân của Ngài, nhưng có một người lính đã dùng ngọn giáo đâm vào sườn trái của xác Chúa Giêsu. Ngọn giáo đâm thấu vào trái tim và lúc đó máu và nước từ trái tim Chúa Giêsu chảy ra. Tất cả những sự kiện này đã xãy ra y như lời trong Kinh Thánh Cựu Ước đã báo trước về cái chết của Đấng Cứu Thế như thế nào. (Xin xem Phúc Âm theo Thánh Gioan đoạn 19, từ câu 31...).

        Vào chiều tối ngày Thứ Sáu đó, có một ông tên là Giuse người ở xứ Arimathê (ông là một thành viên có thế giá trong Hội Đồng Do Thái và vẫn âm thầm tin theo Chúa Giêsu) đã đến xin Philatô cho tháo xác Chúa xuống. Sau đó ông cùng với ông Nicôdêmô (cũng là một thủ lãnh nhóm Pharisiêu, nhưng vẫn âm thầm tin theo Chúa Giêsu, xin xem Phúc Âm Goan, đoạn 3, câu 1...) táng xác Chúa theo tục lệ người Do Thái thời đó: tẩm liệm xác Chúa bằng thuốc thơm, quấn khăn liệm và đặt trong mộ đá. Mộ đá còn mới, của ông Giuse Arimathê và nằm trong thửa vườn của gia đình ông. Vườn nầy lại gần nơi Chúa Giêsu chịu đóng đanh (xin xem Phúc Âm Gioan đoạn 19, từ câu 38...). Trong lúc hai ông táng xác Chúa, thì có Bà Maria Madalêna và Maria mẹ ông Gio-xê chứng kiến (Phúc Âm Maccô đoạn 15, câu 47). Chắc là có một số người khác nữa cùng tham dự cuộc táng xác; nhất là Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu; nhưng không thấy Phúc Âm nói đến. Còn Thánh Giuse có thể Chúa đã cất Ngài về trước rồi.

        Chúng ta cũng nên nhớ: Thời đó người ta không đặt xác chết trong quan tài như chúng ta ngày nay, nhưng chỉ tẩm xác bằng thuốc thơm, rồi quấn trong khăn liệm, sau đó đặt vào mộ đã đục sẵn trong một núi đá hay đồi đá lớn, sau đó lấy một tảng đá lập cửa mộ; rồi những ngày tiếp theo, các người thân trong gia đình thường đến vào lúc sáng sớm, lật tảng đá lấp cửa mộ, rồi tiếp tục xức thuốc thơm cho xác người chết, thường là trong 3 ngày liền hoặc cả tuần lễ. Thuốc thơm này thường là mộc dược (myrrh) trộn với trầm hương (aloes) vừa ướp hương thơm cho xác chết, vừa giữ cho xác chết được lâu không thối rữa. Khi khai quật mộ các vua chúa Ai Cập thời xưa, người ta thấy rõ điều nầy.

        Còn một điều nữa cũng cần nói đến là các lãnh tụ Do Thái đã xin Philatô cho lính gác mộ Chúa, vì sợ rằng các môn đệ của Chúa Giêsu đến lấy trộm xác Chúa đưa đi nơi khác, rồi phao tin là Chúa đã sống lại. Philatô đã bảo họ: “Các ông có lính của các ông, các ông hãy sai lính của các ông đến mà canh gác”. Thế là họ cho lính đến niêm phong mộ và canh gác (Phúc Âm Matthêu đoạn 27, câu 62...). Tuy nhiên Chúa Giêsu đã thực sự sống lại vào “ngày Thứ Nhất trong tuần” và đã hiện ra lần đầu tiên với bà Maria Madalêna, bà Maria mẹ ông Giacôbê và bà Salômê ngay nơi táng xác Chúa khi các bà đến viếng mộ Chúa vào sáng sớm (Phúc Âm Matcô đoạn 16, câu 1...), sau đó với hai tông đồ Phêrô và Gioan, và nhiều lần sau nữa với các Tông đồ và nhiều người khác trong vòng 40 ngày từ khi Chúa Giêsu sống lại (Mátcô 16, 9; Gioan 20,11); đặc biệt là: lần hiện ra với “Hai Môn Đệ trên đường trở về làng Emmaus” ngay buổi chiều “ngày thứ nhất trong Tuần” (xin xem Phúc Âm Mátcô 16, 12; Luca 24,13); lần hiện ra với các Tông đồ “tám ngày sau đó tại nhà nơi các môn đệ ở” để củng cố đức tin cho Tông đồ Tôma (xin xem Phúc Âm Gioan 20, 26); lần hiện ra với các Tông đồ tại bờ “Biển Hồ Tibêria” sau một đêm các Ngài đánh cá thất bại, giúp các Ngài đánh được một “mẻ lưới đầy cá lớn một cách lạ lùng”, phỏng vấn lòng tin yêu của Thánh Phêrô nơi Chúa và trao quyền lãnh đạo các Tông đồ cho Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo hội. Lần cuối cùng là lần Chúa hiện ra tại Bêtania, với các Tông đồ để “mở trí” cho các Ngài hiểu ra những điều đã ghi chép trong Kinh Thánh (Cựu Ước), củng cố thêm đức tin cho các Ngài, ban mệnh lệnh truyền giáo, hứa sẽ luôn ở với các Ngài cho đến tận thế, rồi dơ tay ban phép lành cho các Ngài trong khi “Chúa được cất về Trời” (xin xem Phúc Âm Luca 24, 44…; Mátcô 16, 14…; Matthêu 28, 16…; Sách Tông Đồ Công Vụ 1, 4…).

        Từ ngày đó, các Kitô hữu đã mừng lễ vào ngày đầu tuần (ngày Chúa sống lại) chứ không vào ngày “Sabath” “Thứ Bảy” như người Do Thái. Như vậy, các Kitô hữu mừng việc Chúa Giêsu sống lại vào ngày đầu tuần và gọi là ngày “Chúa Nhật”.

        Tuy nhiên dịp Đại Lễ Phục Sinh hàng năm là dịp mừng việc Chúa sống lại một cách đặc biệt sau một Mùa Chay dài và sau Tuần Thương Khó; như vậy là để nhắc nhở tín hữu của Chúa nhớ rằng đời người chóng qua, như “hoa sớm nở, tối tàn”. Nhưng chết không phải là hết. Chết chỉ là một sự biến đổi, một sự “qua đời” (từ cuộc đời chóng qua đến cuộc sống vĩnh hằng); như cha ông chúng ta đã nói “sinh ký, tử quy”. Nhưng muốn được vào cuộc sống vĩnh hằng, các tín hữu phải nhìn nhận con người yếu hèn của mình luôn bị cám dỗ và sa ngã (human weaknesses). Vì thế họ cần cầu nguyện luôn để xin ơn Chúa giúp đở, cố gắng vươn lên. Hơn nữa, sống không phải là sống một mình mà là “sống với” mọi người chung quanh. Sống nâng đỡ lẫn nhau (“chị ngã em nâng”) cả tinh thần và vật chất. Về tinh thần, cùng giúp nhau phấn đấu vươn lên và canh tân cuộc sống (renewal). Về vật chất, cùng giúp đỡ nhau, nhất là giúp đỡ những người nghèo khó, thiếu thốn. Đó chính là ba chủ đề lớn của Mùa Chay Thánh hằng năm: Cầu nguyện, hy sinh hãm mình và làm việc từ thiện (tiết kiệm để dành tiền bạc giúp đỡ anh chị em thiếu thốn). Khi giúp đỡ nhau, nhất là giúp người nghèo khó, là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Ngày chúng ta “qua đời”, Thiên Chúa sẽ ban thưởng cho chúng ta và nói: “Hãy vào lãnh phần thưởng cuộc sống vĩnh hằng; vì xưaTa đói, các con đã cho Ta ăn; Ta khát, các con đã cho Ta uống...” (xin xem Phúc Âm Matthêu đoạn 25, từ câu 31...).Trong tuần Thánh này chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa nhân từ đánh động tâm hồn chúng ta để mỗi người nhìn nhận tội mình như người ‘Trộm lành’ cũng bị đóng đanh với Chúa, hay như ông Dan Leach, để chúng ta khiêm tốn thú nhận tội lỗi, xin ơn Chúa thứ tha và ‘ăn năn trở về’ để ‘sống lại’ với Chúa và rao giảng Tin Mừng Tình Thương cứu độ cho mọi người.

        Xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban phúc lành cho mọi người chúng ta.

Lm. Anphong Trần Ðức Phương